Tương lai của Cookieless: Vì sao Cookies lại biến mất?

Kể từ khi Google thông báo loại bỏ cookie của bên thứ ba và Apple công bố các thay đổi khiến Mã định danh cho nhà quảng cáo (IDFA) ít có giá trị hơn so với trước đây, marketers ngày càng lo ngại về tương lai không có cookie.

Mặc dù nhu cầu về quyền riêng tư của người dùng ngày càng tăng, họ vẫn muốn cá nhân hóa, có nghĩa là marketer cần đảm bảo dữ liệu họ sử dụng là sạch và chính xác. Một số cách thức để cân bằng dữ liệu tạm thời này là sử dụng cookie lưu trữ thông tin và đưa ra các tùy chọn cho phép, nhưng trong 2 năm nữa, cookie của bên thứ ba sẽ chỉ còn là quá khứ.

Vậy thì nếu trước đây cookie của bên thứ ba luôn hoạt động rất tốt cho cả người dùng và marketers, tại sao chúng lại biến mất? Nếu bạn là marketers dựa vào cookie của bên thứ ba để cung cấp insights được nhắm mục tiêu như cách cookies lướt qua web, bạn sẽ làm gì tiếp theo?

Tương lai của cookieless là gì?

Tương lai của cookieless là chuyển từ bức tranh digital toàn cảnh sau kế hoạch loại bỏ cookie bên thứ 3 trong trình duyệt Chrome của Google, được công bố vào tháng 1/2020 (hiện đã bị hoãn đến năm 2023).

Với rất nhiều hoạt động digital marketing dựa trên cookie của bên thứ 3, phần lớn lĩnh vực công nghệ quảng cáo – cũng như publishers, advertisers và marketers đang trong một cuộc chạy đua điên cuồng, quy mô lớn để tìm ra các giải pháp thay thế khả thi.

Các giải pháp nhận dạng thay thế dựa trên định danh không còn cookie, chẳng hạn như địa chỉ email, sẽ là một thành phần thiết yếu của công nghệ không phải của Google. Tuy nhiên, chất lượng và khối lượng dữ liệu của bên thứ nhất có thể sẽ quyết định hiệu quả của việc một công ty sử dụng các giải pháp thay thế cookie nhất định, chẳng hạn như các công nghệ ID thay thế. Do đó, chiến lược của nhiều doanh nghiệp hiện đang chuyển sang hướng thu thập số lượng lớn dữ liệu khách hàng chính xác và đáng tin cậy.

Cookieless là gì?

Thuật ngữ “cookieless” mô tả một loại hình marketing mà ở đó marketers ít phụ thuộc vào cookie của bên thứ ba, đây là những mẩu dữ liệu nhỏ được trao đổi giữa các nhà quảng cáo có chứa số nhận dạng cá nhân khi người dùng duyệt web. Điều này tác động đến các trang web sử dụng cookie của bên thứ ba để xác định người dùng và nhắm mục tiêu họ bằng quảng cáo hoặc hình thức marketing có liên quan.

Nói chung, cookie lưu trữ thông tin về máy tính của bạn để xác định bạn là khách truy cập cá nhân bằng cách lưu trữ các số nhận dạng duy nhất như số đăng ký hoặc session ID. Tuy nhiên, với việc xóa cookie, các số nhận dạng khác (ví dụ: địa chỉ IP) sẽ nhận dạng máy tính duy nhất để tìm hiểu thêm về cách bạn đang trực tuyến.

Tóm lại, cookieless có nghĩa là các trang web lưu trữ dữ liệu bằng các phương pháp khác như địa chỉ IP hoặc ID thiết bị dưới dạng số nhận dạng thay vì cookie. Các phương pháp thay thế này sẽ theo dõi bạn trực tuyến. Vào tháng 3/2021, Google tách khỏi các công ty quảng cáo khác bằng cách thông báo rằng họ sẽ không thu thập biểu đồ thông tin nhận dạng cá nhân (PII – personally identifiable information) từ các giá trị nhận dạng thay thế như địa chỉ email của người dùng.

Mặc dù việc mất cookie của bên thứ ba vẫn có thể ảnh hưởng đáng kể đến marketers dựa vào dữ liệu phân tích (như session ID) để nhắm mục tiêu quảng cáo, nhưng Google đã chọn không tham gia các phương pháp thu thập PII vì Google đã triển khai phương pháp thay thế có vẻ an toàn hơn: Công nghệ học tập nhóm tổ hợp có liên kết (FLoC – Federated Learning of Cohorts), hay còn gọi là Privacy Sandbox.

Google cho rằng FLoC là công nghệ quảng cáo “ưu tiên quyền riêng tư” và “dựa trên sở thích” (AdTech). Thay vì cookie của bên thứ ba theo dõi thói quen duyệt web của người dùng, trình duyệt web của Google – Chrome – sẽ thực hiện việc này thay thế. Người dùng sẽ được đặt vào một đối tượng hoặc “cohort” được nhóm theo thói quen của họ. Sau đó, các nhà quảng cáo sẽ được tự do nhắm mục tiêu quảng cáo của họ đến các nhóm cohort không thể xác định này thay vì người dùng cá nhân.

Vì sao Google loại bỏ dần cookie?

Theo Justin Schuh – Director of Chrome Engineering của Google, lý do Google loại bỏ dần cookie của bên thứ ba là vì người dùng “yêu cầu nhiều quyền riêng tư hơn, bao gồm tính minh bạch, lựa chọn và kiểm soát cách dữ liệu của họ được sử dụng”. Ông ngụ ý rằng Google đang “tiến hóa” để tạo ra “hệ sinh thái web cần thiết để đáp ứng những nhu cầu ngày càng tăng”.

Không có bất kỳ thông tin nào trong số này là sai sự thật. Trên thực tế, 86% người dùng nói rằng họ cảm thấy ngày càng lo ngại về quyền riêng tư dữ liệu của mình. Hơn 78% bày tỏ lo ngại về lượng dữ liệu được thu thập.

Nhưng có lẽ có một khía cạnh khác đối với quyết định của Google khi loại bỏ cookie của bên thứ ba trên web – theo Cuộc điều tra của Ủy ban Bảo vệ Dữ liệu Ireland (DPC – Irish Data Protection Commission’s) đối với hoạt động kinh doanh quảng cáo trực tuyến của Google. Không ngoa khi nói rằng các cuộc điều tra cao cấp tương tự, cùng với nỗi sợ hãi ngày càng tăng của người tiêu dùng đã tạo ra cơn bão hoàn hảo mà Google buộc phải ứng phó.

Vậy thì điều này có ý nghĩa gì đối với những bên liên quan khác? Khi Google lần đầu tiên công bố quyết định loại bỏ cookie của bên thứ ba vào tháng 1/2020, Hiệp hội các nhà quảng cáo quốc gia đã đưa ra một tuyên bố. Trong đó, họ bày tỏ “sự thất vọng sâu sắc” với quyết định của Google và thừa nhận những lo ngại rằng cookieless sẽ phá vỡ “đáng kể” ngành quảng cáo.

Cookieless đi xa đến mức các nhà quảng cáo cáo buộc Google “cắt đứt nguồn cung cấp kinh tế mà các công ty mới thành lập và mới nổi cần để tồn tại”. Việc trì hoãn thêm 3 năm đã không thuyết phục được các đồng nghiệp và đối thủ cạnh tranh của Google.

Vào tháng 9/2021, GetApp, một tài nguyên SaaS trực tuyến, đã hợp tác với HubSpot để thực hiện một cuộc khảo sát. Kết quả của họ đã tiết lộ rằng:

  • 41% marketers tin rằng thách thức lớn nhất của họ là không thể theo dõi đúng dữ liệu.
  • 44% marketers dự đoán rằng họ sẽ cần tăng gấp 5 lần mức chi tiêu từ 5% lên 25% để đạt được các mục tiêu tương tự vào năm 2022 như họ đã làm vào năm 2021.

Tất nhiên đối với tương lai, cookieless sẽ tương tự như sự đổi mới.

Mặc dù cuộc khảo sát của GetApp cho thấy khoảng 23% marketers có kế hoạch tái đầu tư vào phần mềm email marketing vào năm 2022, các nền tảng quản lý dữ liệu (DMP – Data Management Platforms) và nền tảng dữ liệu khách hàng (CDP – Customer Data Platforms) đã phát triển theo các cách khác nhau để chuẩn bị cho sự thay đổi đó.

Trên thực tế, các nền tảng dữ liệu khách hàng đã chứng kiến sự gia tăng đáng kinh ngạc kể từ khi áp dụng vào năm 2021, với ngành CDP tạo ra doanh thu ước tính 1,6 tỷ đô la. Marketers đang dần rời bỏ việc sử dụng các nền tảng quản lý dữ liệu và thay vào đó chọn các nền tảng dữ liệu khách hàng.

Hành động này có thể đến là do marketers đang đầu tư nhiều hơn vào dữ liệu của bên thứ nhất. DMP chủ yếu dựa vào dữ liệu của bên thứ ba, lưu trữ dữ liệu trong thời gian ngắn hơn và không thể xác định người dùng để tạo đối tượng chính xác nhất có thể, như cách CDP có thể thực hiện.

Tác động của tương lai không còn cookie

Tác động tức thời của một tương lai không có cookie sẽ được nhìn thấy ở quy mô của hầu hết đối tượng bên thứ ba (đối tượng có dữ liệu chỉ được thu thập thông qua cookie của bên thứ ba). Quy mô đối tượng sẽ giảm đến mức không còn đủ khả năng mở rộng cho hoạt động mua phương tiện truyền thông (media buying), dẫn đến tỷ lệ chuyển đổi thấp và nhắm mục tiêu không phù hợp.

Có nghĩa là marketers cần tạo các chiến lược phân tích đối tượng mới và dựa vào các phương pháp marketing khác như email marketing. Trong khi đó, các công ty xử lý và bán dữ liệu quảng cáo cũng phải phát triển theo các cách mới để thu thập và tổng hợp dữ liệu đối tượng một cách an toàn mà không dựa vào cookie của bên thứ ba, trong đó các phương pháp đối mới DMP của bên thứ nhất có thể khá hữu ích.

Chính các phương thức dữ liệu của bên thứ nhất này nắm giữ chìa khóa cho các bước tiếp theo dành cho doanh nghiệp và marketers.

Sau khi loại bỏ dần cookie của bên thứ ba, các doanh nghiệp và marketers cần sử dụng dữ liệu của bên thứ nhất càng nhiều càng tốt. Dữ liệu của bên thứ nhất sẽ không biến mất mà thay vào đó chỉ loại bỏ dần cookie của bên thứ ba.

Chiến lược dữ liệu của bên thứ nhất có thể chứng minh tầm quan trọng của việc cá nhân hóa trải nghiệm thành công trong suốt hành trình của khách hàng, đồng thời đảm bảo hoạt động bảo mật dữ liệu và các cơ hội quảng cáo được nhắm mục tiêu phù hợp.

Sự đồng thuận giữa các chuyên gia dữ liệu chỉ ra rằng điều kiện tiên quyết cho một chiến lược dữ liệu cập nhật và chắc chắn trong tương lai không còn cookie là phải có một hệ thống có thể cập nhật hồ sơ người tiêu dùng theo thời gian thực.

Một hệ thống thời gian thực có thể đảm bảo sự đồng ý của người dùng được tôn trọng khi từ chối xảy ra trên một kênh. Có nghĩa là giữ cho dữ liệu có thể sử dụng để đưa ra hành động, cho phép doanh nghiệp chủ động hành động trên dữ liệu (ví dụ: chọn tham gia một tương tác khác trên kênh tương tự). Những sự kiện thời gian thực này kích hoạt hồ sơ người dùng trên quy mô lớn, mang lại trải nghiệm cá nhân hóa từ đầu đến cuối.

Sau khi loại bỏ dần cookie của bên thứ ba, các doanh nghiệp và marketers cần sử dụng dữ liệu của bên thứ nhất càng nhiều càng tốt.

Mặt khác, nếu các công ty và marketers không làm gì, họ có nguy cơ triển khai các bản sửa lỗi và giải pháp thay thế ngắn hạn vào phút cuối có thể tạo ra các kho chứa dữ liệu, dẫn đến triển khai quảng cáo nhắm mục tiêu không liên quan và không mong muốn, đồng thời có khả năng khiến họ gặp rủi ro bị phạt hoặc nhận lợi tức đầu tư (ROI) âm.

Làm thế nào để thích nghi trong một thế giới không có cookie?

Mặc dù “một thế giới không có cookie” có vẻ khó khăn đối với marketers và doanh nghiệp đã quen với cookie của bên thứ ba, nhưng thật may mắn khi chỉ có cookie của bên thứ ba đang bị xóa sổ. Cookie của bên thứ nhất sẽ tiếp tục tồn tại và sẽ vẫn có cơ hội cho quảng cáo, phân khúc đối tượng và cá nhân hóa có liên quan.

Nhưng một câu hỏi đặt ra là bằng cách nào? Câu trả lời là thông qua các tín hiệu theo dõi thay thế (tracking signal).

Sau khi cookie của bên thứ ba bị vô hiệu hóa, các nhóm marketing hàng đầu sẽ có ba tùy chọn chính để đảm bảo khả năng xử lý: Quảng cáo dựa trên fingerprint hoặc theo xác suất, quảng cáo dựa trên cohort và ID toàn cầu (Universal ID) hoặc xác thực.

Trong khi cấp cao hơn của cookies cho thấy marketers đang tìm cách thực hiện một loạt các giải pháp, thì có một khoảng cách lớn ở cấp thấp hơn. Hơn 2/3 (67%) marketers ít thành công nhất vào năm 2021 cho biết nhóm của họ dự định sử dụng quảng cáo dựa trên nhóm cohort như một chiến lược để giảm bớt việc ngừng sử dụng cookie. Tỷ lệ chấp nhận các công nghệ khác của họ thấp hơn đáng kể so với các đối thủ cạnh tranh.

Cuối cùng, không có giải pháp nào phù hợp cho tất cả khi bù đắp cho việc từ chối cookie của bên thứ ba. Điều này có nghĩa là thời gian đang dần bị rút ngắn để tìm ra sự cân bằng phù hợp về phạm vi, chất lượng và quyền riêng tư cho tất cả marketers.

Dưới đây là một số chiến lược thay thế mà marketers có thể sử dụng khi điều hướng việc mất cookie của bên thứ ba.

Chọn các tín hiệu theo dõi thay thế

Tín hiệu theo dõi thay thế là các yếu tố dữ liệu thay thế có thể giúp theo dõi và xác định người dùng khi họ ghé thăm trang web của bạn và cung cấp cho doanh nghiệp (và marketers) thông tin quan trọng về đối tượng tương tự.

Dưới đây là một số tùy chọn theo dõi thay thế mà các doanh nghiệp có thể sử dụng khi họ ngừng sử dụng cookie của bên thứ ba.

Cookie của bên thứ nhất

Cookie của bên thứ nhất là mã tự động được tạo và lưu trữ trên máy tính của khách truy cập khi truy cập trang web của bạn. Cookie này được sử dụng rộng rãi để nâng cao trải nghiệm người dùng vì chứa mật khẩu, thông tin cơ bản về khách truy cập và các tùy chọn khác của người dùng.

Dữ liệu của bên thứ nhất là vô giá đối với marketers vì dữ liệu này cung cấp thông tin chính xác về khách truy cập, với insights mà họ có thể thu thập trực tiếp từ hành vi của người dùng thay vì được suy luận.

Ví dụ, với cookie của bên thứ nhất, bạn có thể khám phá những gì người dùng đã làm trên trang web của mình, tần suất họ truy cập trang web và các chỉ số cần thiết khác giúp bạn phát triển hoặc tự động hóa chiến lược marketing hiệu quả xung quanh họ. Tuy nhiên, bạn không thể xem thông tin về các hoạt động của khách truy cập trên các trang web khác không được liên kết với domain (tên miền) của bạn.

Bạn cũng có thể truy cập bảng điều khiển phân tích cho cookie của bên thứ nhất nếu bạn là marketers điều hành hệ quản trị nội dung (CMS – Content Management System). Các trang tổng quan này hiển thị các số liệu chính, bao gồm số phiên của web trên một trang, số trang mọi người xem trong một lần truy cập, loại trình duyệt cơ bản, dữ liệu địa lý hoặc thậm chí các trang web giới thiệu mà khách truy cập đã nhấp vào liên kết đến trang URL của bạn.

Các doanh nghiệp có thể sử dụng cookie dữ liệu của bên thứ nhất để cung cấp cho người dùng trải nghiệm mượt mà và thuận tiện. Ví dụ, họ có thể lưu trữ thông tin người dùng như thông tin đăng nhập, tùy chọn người dùng như ngôn ngữ và hành vi của người dùng trong giỏ hàng để cung cấp trải nghiệm liền mạch.

Tương tự như vậy, các cookie của bên thứ nhất cung cấp trải nghiệm tuyệt vời cho người dùng cuối và cung cấp nhiều dữ liệu cho marketers. Các thông tin như sở thích của người dùng (được lấy từ các mặt hàng trong giỏ hàng của họ), vị trí địa lý, thông tin nhân khẩu học khác và dữ liệu hành vi đều có thể được sử dụng để tạo hồ sơ khách hàng toàn diện có thể được nhắm mục tiêu với các cơ hội marketing và quảng cáo có liên quan.

Dữ liệu của bên thứ nhất là vô giá với marketers vì cung cấp thông tin chính xác về khách truy cập, với insights thu thập trực tiếp từ hành vi của người dùng thay vì suy luận.

Định danh

Số nhận dạng là dữ liệu xác định trực tiếp người dùng hoặc liên kết họ với danh tính của họ.

Số nhận dạng trực tuyến có thể xác định khách truy cập dựa trên quyền truy cập của người dùng vào các trang web, ứng dụng, công cụ hoặc nhật ký.

Một số định danh tiêu chuẩn là:

  • Địa chỉ giao thức Internet (IP – Internet Protocol)
  • Số nhận dạng cookie
  • Địa chỉ MAC
  • ID quảng cáo
  • Thẻ pixel
  • Tài khoản
  • Device fingerprints

Số nhận dạng tạo dấu vết dữ liệu kết hợp với số nhận dạng duy nhất và dữ liệu khác nhận được từ máy chủ để lập hồ sơ và nhận dạng cá nhân. Tuy nhiên, khi phân biệt người dùng, bạn phải xem xét liệu số nhận dạng trực tuyến có thể được sử dụng riêng lẻ hay kết hợp với thông tin bổ sung hay không.

Tạo các cấu hình riêng biệt là một cách để đánh giá, nhưng các cấu hình không nhất thiết phải cụ thể. Chúng có thể được gắn thẻ với tư cách là những cá nhân hoặc đơn giản là được phân chia thành những người dùng duy nhất của một thiết bị điện tử cụ thể, có thể phân biệt được với những thiết bị khác. Việc sử dụng số nhận dạng được lưu trữ trong cookies hoặc các công nghệ khác có thể định danh các cá nhân khi họ lướt trên web hoặc một trang web cụ thể.

Ví dụ, dữ liệu cá nhân như địa chỉ IP có thể được xử lý, dữ liệu này xác định duy nhất hành trình của người dùng thông qua trang web (được ghi lại trong các trang được nhấp). Nếu một địa chỉ IP quay lại và bắt đầu một hành trình tương tự, trang web có thể lập hồ sơ người dùng đó. Giả sử một người dùng iPhone từ một vị trí địa lý cụ thể đang tìm kiếm ốp iPhone 12 giá rẻ.

Bối cảnh

Nhắm mục tiêu theo ngữ cảnh là phương pháp quảng cáo sẽ được hưởng lợi rất nhiều từ việc xóa cookie của bên thứ ba. Nhắm mục tiêu theo ngữ cảnh, trước đây bị bỏ qua để ủng hộ cookie của bên thứ ba và các phương pháp liên quan, có thể quay trở lại khi cookies cạn kiệt và Quy định bảo vệ dữ liệu chung (GDPR – General Data Protection Regulation) được thắt chặt.

Nhắm mục tiêu theo ngữ cảnh là một giải pháp thay thế khả thi cho các nhà quảng cáo vì không yêu cầu cookie của bên thứ ba hoặc theo dõi hoặc nhắm mục tiêu người dùng trực tiếp. Nhắm mục tiêu đang phát triển trở lại do các phương pháp thực hành hiệu quả và thân thiện với quyền riêng tư.

Nhắm mục tiêu theo ngữ cảnh đặt quảng cáo có liên quan nhất trong ngữ cảnh phù hợp nhất. Ví dụ như đặt quảng cáo cho sản phẩm tóc dành cho nam giới trên tạp chí dành cho nam giới hoặc đặt quảng cáo cho một chiếc ô tô mới trong quảng cáo truyền hình về ô tô. Ý tưởng là đối tượng phù hợp nhất nhìn thấy quảng cáo phù hợp nhất và thực hiện hành động.

Cohorts

Cohorts (Nhóm thuần tập) là một nhóm người có cùng số nhận dạng. Một nhóm thuần tập có thể là bất cứ ai, miễn là có sự kết nối, từ những người ở một khu vực cụ thể đến những người cùng tải một ứng dụng.

Mục tiêu của một nhóm thuần tập là cho phép marketers so sánh dữ liệu bằng cách sử dụng các số liệu quan trọng trong một ngữ cảnh nhất định dễ dàng. Tuy nhiên, nhóm thuần tập rất linh hoạt và bạn có thể làm nhiều việc để nhấn mạnh nhu cầu về nhóm thuần tập trong marketing.

Nhóm thuần tập hoạt động tương tự như quảng cáo theo ngữ cảnh. Họ là một hình thức marketing chủ động. Ví dụ, một loại nhóm thuần tập có thể là một buổi hòa nhạc. Những người đi xem hòa nhạc có khả năng đưa ra quyết định mua hàng theo cảm xúc vì họ cảm thấy phấn khích, hạnh phúc hoặc vui sướng khi xem ban nhạc của mình biểu diễn và chia sẻ trải nghiệm với những người hâm mộ khác.

Áp dụng cohort marketing

Nhóm người cụ thể này có thể sẽ ăn mừng trải nghiệm của họ bằng cách mua hàng hóa phục vụ riêng cho họ khi họ truy cập trực tuyến hoặc rời khỏi địa điểm.

Khi đó, các nhóm thuần tập sẽ hoạt động hiệu quả bằng cách trình bày thông tin áp dụng cho một nhóm người cụ thể, được phân đoạn rõ ràng hơn và các doanh nghiệp có thể sử dụng insight để cung cấp quảng cáo có liên quan và được nhắm mục tiêu.

Sự đồng thuận

Sự đồng thuận rất quan trọng do mối quan tâm về quyền riêng tư của người dùng ngày càng tăng. Thật không may, việc quản lý sự đồng thuận đi kèm với nhiều thách thức, bao gồm cả xử lý tuân thủ dữ liệu. Theo các quy tắc GDPR mới, bất kỳ thực thể nào kiểm soát dữ liệu đều có nghĩa vụ pháp lý phải làm như vậy theo quy định.

Các quy định có thể bao gồm mọi thứ từ việc thu thập sự đồng ý, mã hóa dữ liệu và các biện pháp bảo mật để xóa dữ liệu khi không còn cần thiết. Người dùng cũng có các quyền mới, chẳng hạn như quyền xóa hoặc chuyển dữ liệu của họ. Vì các quyền này cần được tính đến trong hoạt động kinh doanh nên các công ty phải xem xét chúng theo sở thích cá nhân của họ.

Có nghĩa là trước khi doanh nghiệp có thể thu thập dữ liệu của bên thứ nhất từ người dùng, doanh nghiệp cần có cách thu thập dữ liệu an toàn, có được sự đồng ý và một biểu mẫu được mã hóa để lưu trữ dữ liệu trong khi vẫn hoàn toàn minh bạch về thông tin họ thu thập, lý do, nội dung họ thu thập và cách sử dụng dữ liệu.

Rất may, câu trả lời nằm ở nền tảng quản lý sự đồng thuận (CMP – Consent Management Platform). CMP cho khách truy cập biết những thông tin mà công ty thu thập và sử dụng. Sau đó, CMP quản lý dữ liệu về sự đồng ý của khách truy cập và phản hồi các yêu cầu của khách truy cập trang web, chẳng hạn như truy cập hoặc xóa dữ liệu được lưu trữ.

CMP thường gặp nhất dưới dạng biểu mẫu bật lên (pop-up) nhắc khách truy cập trang web chọn dữ liệu họ muốn cung cấp sau khi trang chủ hoặc trang đích (landing page) của họ tải đầy đủ. Những hành động này giúp xây dựng lòng tin bằng cách cho thấy rằng tổ chức thu thập dữ liệu khách hàng một cách an toàn và minh bạch.

Một số CMP hiển thị thông báo quyền riêng tư yêu cầu khách truy cập đồng ý hoặc từ chối các tùy chọn thu thập dữ liệu khác nhau, trong khi những CMP khác tìm cách sử dụng dữ liệu nhạy cảm như thông tin nhân khẩu học hoặc vị trí địa lý. Một số người khác có thể chỉ cần thông báo cho khách truy cập rằng họ đang thu thập dữ liệu.

Mặt khác, các CMP tốt nhất cung cấp bằng chứng về việc tuân thủ dữ liệu thông qua các dấu vết kiểm soát có sẵn và bảo vệ các tổ chức tránh khỏi việc bị phạt. Nhìn chung, chúng là những nền tảng quan trọng để đảm bảo tuân thủ việc thu thập dữ liệu.

Cookie có thực sự biến mất không?

Cookie có biến mất nhưng chỉ áp dụng cho một số cookie. Ở giai đoạn này, Google chỉ xóa cookie của bên thứ ba đã bị làm yếu do bị chặn trong trình duyệt web chính của Apple, Safari và nền tảng nguồn mở, Mozilla Firefox.

Có một tin tốt là với việc chú trọng hơn vào thu thập dữ liệu của bên thứ nhất, marketers và doanh nghiệp có nhiều khả năng tối ưu hóa các chiến dịch marketing được nhắm mục tiêu và có liên quan cao, đồng thời mang lại lợi tức đầu tư cao.

Mặc dù việc cookie của bên thứ ba biến mất được thu thập trên web có thể gây khó khăn cho hoạt động định danh các cá nhân, nhưng các nhóm thuần tập và quảng cáo theo ngữ cảnh có thể lấp đầy khoảng trống bằng cách đảm bảo thông điệp phù hợp vẫn tiếp cận đúng người.

Điều tốt nhất bạn có thể làm ngay bây giờ với tư cách marketers là luôn cập nhật cookies của bên thứ ba và các biện pháp bảo mật khác có thể ảnh hưởng đến doanh nghiệp. Nếu đang sử dụng dữ liệu của bên thứ ba trong quảng cáo của mình, bạn nên xem xét ngay các lựa chọn thay thế ở trên.

* Bài viết gốc: Tinle.co