Học giả WEF ấn tượng "Câu chuyện về sự thần kỳ của nền kinh tế Việt Nam"

Học giả Peter Vanham đã chia sẻ những ấn tượng cá nhân qua bài viết "Câu chuyện về sự thần kỳ của nền kinh tế Việt Nam". Từ vị thế là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới, Việt Nam đã vươn lên trở thành trung tâm thu hút đầu tư ở Đông Nam Á.

Trên trang web của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) đã cho đăng một bài viết của học giả Peter Vanham mang tựa đề “Câu chuyện về sự thần kỳ của nền kinh tế Việt Nam”. Bài viết ghi lại những chia sẻ về ấn tượng của ông Vanham đối với sự phát triển kinh tế nhanh chóng của Việt Nam trong những năm gần đây.

“Đi bộ quanh thủ đô Hà Nội, bạn có thể cảm nhận được nguồn năng lượng vô biên ở khắp mọi nơi. Mọi người đi xe máy, mua và bán tất cả mọi thứ từ điện thoại di động cho tới đồ ăn ở vô số các cửa hàng nhỏ. Họ mải miết đi làm và đi học. Việt Nam là một quốc gia trẻ, đang phát triển và bất kỳ điều gì cũng có thể cảm nhận được tại quốc gia này”, ông Vanham chia sẻ.

Ông Vanham nhấn mạnh, sau khi chiến tranh kết thúc vào năm 1975, Việt Nam vẫn là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới. Vào giữa thập niên 1980, GDP bình quân đầu người chỉ là 200 - 300 USD. Tuy nhiên, mọi chuyện đã thay đổi sau khi Việt Nam tiến hành công cuộc “Đổi Mới” và phát triển “nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa”.

Việt Nam hiện là một trong những ngôi sao trong nhóm các nền kinh tế mới nổi. Tốc độ phát triển kinh tế là 6 - 7%/ năm, giá trị xuất khẩu tương đương giá trị GDP. Bất kỳ sản phẩm nào từ giày thể thao Nike cho tới điện thoại Samsung đều được sản xuất tại Việt Nam.

Việt Nam hiện là trung tâm thu hút vốn đầu tư và sản xuất từ nước ngoài vào khu vực Đông Nam Á. Ảnh: Reuters

Theo tờ Financial Times, Phó Giáo sư Sheng Lu tại Đại học Delaware nhận định, đây là thành công của Việt Nam, quốc gia có rất ít người lao động hoặc cơ sở sản xuất nhàn rỗi.

Vậy điều gì đã làm nên sự thần kỳ của nền kinh tế Việt Nam? Theo các nhà phân tích tại Ngân hàng Thế giới (WB) và Viện nghiên cứu Brookings, sự trỗi dậy của nền kinh tế Việt Nam có thể được giải thích với 3 lý do chính.

Thứ nhất, Việt Nam đã nắm bắt được lợi thế của tự do hóa thương mại. Thứ hai, Việt Nam đã kết hợp tự do hóa bên ngoài cùng với tiến hành cải cách từ bên trong thông qua việc gỡ bỏ hàng loạt rào cản và giảm chi phí kinh doanh. Thứ ba, Việt Nam đầu tư mạnh tay vào nguồn vốn và nguồn nhân lực, chủ yếu thông qua các khoản đầu tư công.

Về yếu tố đầu tiên, giới phân tích nhấn mạnh Việt Nam đã ký kết hàng loạt thỏa thuận thương mại tự do trong 20 năm qua. Cụ thể, vào năm 1995, Việt Nam gia nhập khu vực thương mại tự do ASEAN. Năm 2000, Việt Nam ký thỏa thuận thương mại tự do với Mỹ. Năm 2007, Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Kể từ đó, Việt Nam đã ký hàng loạt thỏa thuận với Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc và năm nay là Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) sửa đổi dù Mỹ tự rút khỏi TPP. Những thỏa thuận này đã giúp giảm bớt hàng rào thuế quan áp lên các mặt hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam.

Theo học giả Vanham, chính phủ Việt Nam đã nỗ lực nhằm hướng tới một nền kinh tế mở khi thực thi cải cách trong nước. Vào năm 1986, Việt Nam lần đầu ban hành Luật Đầu tư nước ngoài. Trong bản báo cáo vào năm 2016 của hãng luật Baker & McKenzie, kể từ khi được ban hành, bộ luật của Việt Nam đã được sửa đổi nhiều lần nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài cũng giảm thủ tục hành chính.

GDP bình quân đầu người của Việt Nam vào năm 1985 chỉ là 230 USD. Song tới năm 2017, con số này đã tăng gấp 10 lần và đạt 2.343 USD theo sức mua tương đương là 6.000 USD.

Những nỗ lực của Việt Nam đã được thế giới ghi nhận. Theo bản báo cáo Mức độ Cạnh tranh toàn cầu của WEF, Việt Nam vươn từ vị trí thứ 77 vào năm 2006 lên vị trí thứ 55 trong năm 2017. Còn theo bảng xếp hạng về Mức độ thuận lợi trong kinh doanh của WB, Việt Nam từ vị trí 104 hồi năm 2007 đã vươn lên vị trí thứ 68 trong năm 2017. Đặc biệt vào năm ngoái, WB nhận định Việt Nam đã đạt được tiến bộ trên tất cả các lĩnh vực từ thực thi hợp đồng, tăng cường tiếp cận tín dụng, đóng thuế và trao đổi thương mại xuyên biên giới.

Để đạt được những thành quả trên không thể không nhắc tới khoản đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng cũng như nguồn nhân lực tại Việt Nam. Với lực lượng dân số gia tăng nhanh chóng, mà một nửa trong số 95 triệu dân đang ở độ tuổi dưới 35, Việt Nam đã đầu tư mạnh mẽ cho nền giáo dục. Ngoài ra, Việt Nam cũng đầu tư mạnh tay vào hệ thống cơ sở hạ tầng nhằm đảm bảo người dân có thể tiếp cận Internet giá rẻ.

Tất cả những khoản đầu tư của chính phủ Việt Nam đã mang lại kết quả. Với mạng lưới cơ sở hạ tầng cùng các chính sách thị trường thân thiện, Việt Nam trở thành một trung tâm thu hút đầu tư và sản xuất từ nước ngoài ở khu vực Đông Nam Á. Nhiều công ty điện tử lớn hàng đầu của Nhật Bản và Hàn Quốc như Samsung, LG, Olympus và Pioneer cùng các doanh nghiệp Mỹ, châu Âu đã đặt cơ sở hoạt động tại Việt Nam. Theo Financial Times, tính đến năm 2017, Việt Nam đã trở thành nhà xuất khẩu hàng may mặc lớn nhất trong khu vực và là nhà xuất khẩu hàng điện tử lớn thứ hai chỉ đứng sau Singapore.

Điều này kéo theo sự tăng trưởng mạnh về kinh tế. Kể từ năm 2010 đến nay, tăng trưởng GDP của Việt Nam tối thiểu đạt 5%/ năm. Vào năm 2017, con số này đạt mức kỷ lục là 6,8%. Điều này có nghĩa từ một quốc gia nằm trong nhóm nghèo nhất thế giới, Việt Nam vươn lên thành quốc gia có thu nhập trung bình. GDP bình quân đầu người của Việt Nam vào năm 1985 chỉ là 230 USD. Song tới năm 2017, con số này đã tăng gấp 10 lần và đạt 2.343 USD theo sức mua tương đương là 6.000 USD.

Theo Chỉ số phát triển toàn diện của WEF, Việt Nam còn nằm trong nhóm các nền kinh tế làm tốt duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức ngày càng toàn diện và ổn định. Đây cũng là yếu tố giúp cho phụ nữ có thêm cơ hội được tuyển dụng. Theo WB, so với nam giới, phụ nữ Việt Nam có cơ hội tuyển dụng là 10%.

Việt Nam nắm vị trí là một trong những nhà xuất khẩu lớn trên thế giới.

Báo cáo hồi đầu năm nay của tờ Financial Times cũng nhấn mạnh, trong bối cảnh làn sóng toàn cầu hóa kinh tế, Việt Nam dường như không thể tránh khỏi bị ảnh hưởng. Bởi giá trị xuất khẩu của Việt Nam chiếm tới 99,2% GDP nhờ vào các khoản đầu tư và thương mại lớn từ nước ngoài. Với vị thế là một thị trường mới nổi, Việt Nam có thể sẽ mất đi vị trí là điểm đến đầu tư do đồng USD ngày một tăng giá.

Tuy nhiên, theo tác giả Vanham, hiện tại, Việt Nam dường như là quốc gia được hưởng lợi nhiều hơn là bị tổn thương. Dù Mỹ đã rút khỏi TPP, song các chính sách thương mại cứng rắn của Mỹ lại tác động mạnh tới Trung Quốc hơn là với Việt Nam. Việc chính quyền Mỹ áp thuế với hàng tỷ USD hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc cũng khiến các công ty tìm kiếm chuyển địa điểm sản xuất từ Trung Quốc sang một số quốc gia khác bao gồm Việt Nam.

Ngay cả trong trường hợp vướng phải những khó khăn từ chủ nghĩa bảo hộ của phương Tây, Việt Nam vẫn có thể trông cậy vào tầng lớp trung lưu để tạo động lực tăng trưởng kinh tế. Các nhà bán lẻ trong và ngoài nước vẫn luôn đang mở rộng mạng lưới kinh doanh tại Việt Nam do sức mua ngày một tăng.

Nói cách khác, theo ông Vanham, vào một ngày nào đó, thay vì sự nhộn nhịp và hối hả của các cửa hàng nhỏ và dòng người đi xe máy, Việt Nam sẽ được biết đến với các trung tâm thương mại quy mô lớn và những dòng ô tô di chuyển trên khắp đường phố. Còn hiện tại, Việt Nam vẫn phát triển với tốc độ và cách riêng của mình.

Minh Thu
Nguồn Infonet